Lược sử Operon

Thuật ngữ "operon" được đề xuất và sử dụng đầu tiên bởi hai nhà di truyền học người Pháp là François JacobJacques Monod trong các nghiên cứu của hai ông về vi khuẩn E. coli. Có tác giả cho rằng thuật ngữ này xuất hiện lần đầu tiên trong một bài báo ngắn ở Kỷ yếu Viện Hàn lâm Khoa học Pháp vào năm 1960.[8] Từ bài báo này, lý thuyết chung của ôpêron có thể nói là đã được phát triển. Lý thuyết này gợi ý rằng trong mọi trường hợp, các gen trong một ôpêron được kiểm soát âm tính bởi một chất ức chế hoạt động ở một operator (vùng vận hành) duy nhất nằm trước gen đầu tiên. Sau đó, người ta phát hiện ra rằng các gen cũng có thể được điều hòa dương tính cũng như có thể được điều chỉnh ở các bước sau, chứ không chỉ ở bước khởi đầu phiên mã. Do đó, không thể nói rằng tất cả ôpêron có một cơ chế điều hòa chung, vì các ôpêron khác nhau lại có các cơ chế khác nhau. Ngày nay, ôpêron được định nghĩa đơn giản là: một cụm gen được phiên mã thành một phân tử mRNA duy nhất. Tuy nhiên, việc phát triển của lý thuyết ôpêron được coi là một sự kiện mang tính bước ngoặt trong lịch sử ngành sinh học phân tử. Ôpêron đầu tiên được miêu tả là operon lac ở vi khuẩn E. coli.[9] Giải Nobel Sinh lý và Y học năm 1965 được trao cho François Jacob, André Michel LwoffJacques Monod vì những phát hiện của họ liên quan đến sự tổng hợp operon và virus.

Ban đầu, các ôpêron được cho là chỉ tồn tại trong sinh vật nhân sơ (bao gồm các bào quan như lạp thể có nguồn gốc từ vi khuẩn), nhưng kể từ khi phát hiện ra những ôpêron đầu tiên trong sinh vật nhân chuẩn vào đầu những năm 1990,[10][11] chúng phổ biến hơn so với giả định trước đây.[12] Nói chung, sự biểu hiện của các operon tạo ra các mRNA đa cistron, trong khi các operon nhân chuẩn nhân tạo ra các mRNA đơn cistron.

Ôpêron cũng được tìm thấy trong các loại virus như thể thực khuẩn.[13][14] Ví dụ, các phage T7 có hai ôpêron. Ôpêron đầu tiên cho các sản phẩm khác nhau, bao gồm cả RNA polymerase T7 đặc biệt có thể liên kết và phiên mã cho operon thứ hai. Operon thứ hai bao gồm một gen làm tan có nghĩa là khiến cho tế bào bị phá hủy.[15] Ở nhóm này, hệ thống điều hòa di truyền được tìm thấy ở vi khuẩn và virut của chúng trong đó các gen mã hóa cho các protein liên quan đến chức năng được tập hợp dọc theo ADN. Tính năng này cho phép tổng hợp protein được kiểm soát phối hợp để đáp ứng nhu cầu của tế bào. Bằng cách cung cấp các phương tiện để sản xuất protein chỉ khi và khi chúng được yêu cầu, operon cho phép tế bào bảo tồn năng lượng (là một phần quan trọng trong chiến lược cuộc sống của sinh vật). Một operon điển hình bao gồm một nhóm các gen cấu trúc mã hóa các enzyme tham gia vào quá trình trao đổi chất, chẳng hạn như sinh tổng hợp một axit amin. Những gen này nằm liền kề nhau trên một đoạn DNA và nằm dưới sự kiểm soát của một nhà tổ chức (một đoạn DNA ngắn mà RNA polymerase liên kết để bắt đầu phiên mã). Một đơn vị RNA thông tin (mRNA) được phiên mã từ operon và sau đó được dịch thành các protein riêng biệt.

Operon tìm thấy chủ yếu ở sinh vật nhân sơ nhưng cũng ở một số sinh vật nhân chuẩn, bao gồm giun tròn như C. elegansruồi giấm, Drosophila melanogaster. Gen rRNA thường tồn tại trong các ôpêron đã được tìm thấy trong một loạt các sinh vật nhân chuẩn bao gồm các cả các động vật có dây sống. Một operon được tạo thành từ một số gen cấu trúc được sắp xếp dưới sự điều khiển của một promoter chung và được điều hòa bởi một operator (vùng vận hành) chung. Operon được định nghĩa là một tập hợp các gen cấu trúc liền kề, cộng với các tín hiệu điều hòa lân cận ảnh hưởng đến sự phiên mã của các gen cấu trúc.5[16] Các yếu tố điều hòa của một operon nhất định, bao gồm cả chất ức chế, chất đồng ức chếchất hoạt hóa, không nhất thiết phải mã hóa bởi operon. Vị trí và điều kiện của các chất điều hòa, promoter, operator và các chuỗi ADN cấu trúc có thể xác định tác động của các đột biến phổ biến.

Các ôpêron có liên quan đến các thuật ngữ như regulonstimulon; trong khi operon chứa một tập hợp các gen được điều khiển bởi cùng một operator, các regulon chứa một tập hợp các gen được điều hòa bởi một protein điều hòa duy nhất (regulate), và các stimulon chứa một tập hợp các gen được điều hòa bởi một kích thích tế bào đơn (stimulus). Theo các tác giả của nó, thuật ngữ "operon" có nguồn gốc từ động từ "operate" (vận hành).[17]

Tất cả các gen cấu trúc của một ôpêron đều được BẬT hoặc TẮT cùng nhau, điều này có được nhờ vào một promoteroperator nằm ngược dòng với chúng, nhưng đôi khi cần nhiều hơn thế để có thể kiểm soát biểu hiện gen. Để đạt được khía cạnh này, một số gen vi khuẩn được đặt gần nhau, nhưng có một promoter cụ thể cho từng gen trong số này; điều này được gọi là phân nhóm gen. Thông thường những gen này mã hóa cho các protein sẽ hoạt động cùng nhau trong cùng một con đường, chẳng hạn như là con đường trao đổi chất. Phân nhóm gen giúp tế bào nhân sơ có thể tạo ra các enzyme chuyển hóa theo đúng thứ tự.